Sau khi
có dịp nghiên cứu người miền núi quanh Bà Rịa, vào tháng 5 và tháng 6 năm 1880,
bác sĩ hải quân Paul Néis (Pôn Nê-ítx) muốn tiếp tục nghiên cứu các dân tộc
sống ở phía Đông và Đông Bắc Nam Kỳ. Viên thống đốc
giao cho ông nhiệm vụ tìm hiểu thượng lưu dòng sông Đồng Nai càng xa càng tốt.
Bác sĩ
Paul Néis kể lại:
“Ngày
1-11-1880, mùa khô bắt đầu, chúng tôi đến Bà Rịa và sáng ngày 5 chúng tôi lên
đường về hướng Đông.
Trong đoàn có 2 người lính Việt, 1 người Khơ-me làm thông
dịch và 1 người Việt chuyên giao dịch mua bán với người Thượng, làm thông dịch
viên và hướng dẫn trong những ngày đầu chuyến thám hiểm. Hành lý chất trong 2
chiếc xe bò gồm có 1 tá thùng nhỏ có thể khuân vác dễ dàng”.Chiều hôm sau, đoàn
đến Xuyên Mộc, làng người Kinh cuối cùng. Đoàn đi ngang qua núi Chứa Chan, chân
núi Mây Tào. Sau 2 ngày đi trong cánh rừng ngập nước của nhiều phụ lưu sông La
Ngà (Da - Laghna), đoàn đến Võ Đắt (Vo - duoc). Ngày 29 tháng 11, đoàn đến bờ
sông Đồng Nai, gần Culao - tho. Viên chánh tổng người Việt tên là Hên rất hiếu
khách sai một người Thượng đến làng Kiên báo trước, nếu không dân làng sẽ bỏ
chạy. Viên chánh tổng cũng giới thiệu những người khuân vác, giao cho ông lý
trưởng và một viên chức làng Dong-ly tháp tùng đoàn. Ông cũng giới thiệu ông
Thoi ở Biên Hòa làm thông dịch. Ông Thoi chưa bao giờ vượt sông Đồng Nai phía
trên hợp lưu sông Đồng Nai và Đạ Hu-oai (Da - hué). Ông Thoi cho biết phía thượng
lưu là vùng của bộ tộc La-canh-dong. Ông không thể tháp tùng đến đây, chỉ dám
hứa sẽ hướng dẫn đoàn đến làng gần nhất. Đoàn đi dọc hữu ngạn sông Đồng Nai
trong hai ngày qua một khu rừng đẹp, trên con đường mòn do voi và tê giác vạch
ra. Người Thượng (Trao) ở làng Kiên tiếp đoàn rất tử tế. Họ làm ruộng và làm
trung gian với các bộ tộc sống xa hơn.
Bác sĩ
Paul Néis kể tiếp:
“Từ
Culao-tho, sông Đồng Nai chảy siết, nhưng từ làng Kiên, thuyền bè lưu thông
được. Dân làng cung cấp cho chúngtôi thuyền để đi ngược dòng. Họ cũng báo trước
với làng lân cận - làng Tà Lài (Ta-lay). Các viên chức đón chúng tôi bằng thuyền
độc mộc. Giữa hai làng, đồi núi nhấp nhô với một dãy đồi cao từ 30 đến 40m. Tà
Lài không xa hợp lưu sông Đạ Hu-oai. Các viên chức cho chúng tôi biết có thể đi
từ làng này đến làng khác, nhưng khuyên chúng tôi đi về hướng Đông và đừng đi
theo hữu ngạn sông Đồng Nai mà họ gọi là Đạ Đờng (Da-dong) vì dân trong vùng
hung dữ, họ rất sợ. Họ báo tin với làng Palate trên sông Đạ Hu-oai. Dân làng
đón chúng tôi với một số thuyền độc mộc dư sức chở chúng tôi và hành lý. Làng
Palate nằm trên phía hữu ngạn, người ta dựng cho chúng tôi một căn nhà khá tiện
nghi bên kia sông. Tại hợp lưu với sông Đạ Hu-oai, sông Đạ Đờng chảy siết và
không thể đi bằng thuyền độc mộc; ngược lại, sông Đạ Huoai chảy chậm nhưng dòng
sông cũng rộng như sông Đạ Đờng. Từ Palate, chúng tôi muốn đi bằng đường bộ đến
sông Đạ Đờng, nhưng ông Thoi nói dân làng từ chối dẫn chúng tôi theo hướng này,
họ đề nghị chúng tôi đi ngược sông Đạ Hu-oai đến thượng nguồn; khi đến đây,
chúng tôi sẽ tìm thấy một con đường dẫn đến Bình Thuận. Không có thể làm gì
khác, chúng tôi chấp nhận hành trình này”.
Lúc 7
giờ tối ngày 15 tháng 12, vào giờ cơm, những người Thượng và các viên chức làng
Dong-ly bỏ trốn, đoàn phải quay trở về Tà Lài. Sau đó, đoàn lại tiếp tục ngược
dòng sông Đạ Hu-oai.
Sau 3
ngày, đoàn đến Baké trên sông Đạ M’Ri (Da-mré) - phụ lưu chính của sông Đạ
Hu-oai. Vào lúc 11 giờ sáng hôm sau, đoàn vào 4 làng nhưng dân làng đã trốn
chạy. Khi đoàn đến buôn Đạ M’Ri, dân làng đón tiếp niềm nở và ông trưởng buôn
hứacung cấp người khuân vác. Đoàn cho ông Thoi và những người Thượng trở về Tà
Lài.
Bác sĩ
Paul Néis viết về những khó khăn và vùng thượng lưu các dòng sông Đạ Hu-oai, La
Ngà, Đạ Đờng:
“Chúng tôi không có thông dịch, không ai biết tiếng Thượng và Van biết rất ít
tiếng của người Mạ (Tioma). Trước ngày ông Thoi trở về Tà Lài, chúng tôi biết
được các chỉ dẫn sau: sông Đạ Hu-oai bắt nguồn từ núi (gnom) Bous-toun, cách Đạ
M’Ri vài cây số; suối Đạ M’Ri (phụ lưu chính) xuất phát từ núi Contran-yan- yut
đi mất 8 ngày về hướng Bắc, và sông Đạ Đờng khởi nguồn từ núi Lang-bian hay
Tang-rian.... Khi đi ngang qua núi Thion-lay, vì một trận mưa đá, đồng hồ không
chạy được nữa, chúng tôi không xác định được phương hướng; chúng tôi và những
người trong đoàn bị sốt rét và vết loét do vắt cắn. Vì thế, khi người ta chỉ
cho chúng tôi núi Lang-bian về phía Đông Bắc, chúng tôi chỉ có thể nghĩ đến sự
trở về càng nhanh càng tốt.
Sau một
ngày đi trong vùng có nhiều đồi và hai ngày đi trong rừng núi theo hướngĐông Bắc
- Tây Nam ,
chúng tôi đến gần núi Rung (đỉnh cao nhất trong dãy núi) và từ đây, chúng tôi
nhìn thấy biển Đông”.
Ngày 3
tháng 12, đoàn đến Phan Thiết. Viên công sứ tỉnh Bình Thuận nói với bác sĩ Paul
Néis rằng người Việt hiểu rõ Lang Bi-an và biết đó là đầu nguồn dòng sông chảy
qua Biên Hòa, nhưng ông từ chối tạo điều kiện thuận lợi nếu bác sĩ Paul Néis
muốn thám hiểm.
Ngày
3-1-1881, đoàn đến Phan Rí quá giang thuyền chở nước mắm về Sài Gòn. Sau 4 ngày
lênh đênh trên biển cả,chiều ngày 8 tháng 1, thuyền cặp bến Sài Gòn.
*Khi vừa
trở về Sài Gòn, viên thống đốc cho biết có một người xưng là vua củaVương quốc
Mạ xin giao thương và kiếnnghị sẽ đến Sài Gòn. Vài hôm sau, vua Mạ đến cùng với
13 người Thượng, trong số đó bác sĩ Paul Néis đã quen với 2 người trưởng buôn.
Paul Néis tìm hiểu và kết thân với họ trong ba tuần họ lưu lại Sài Gòn.
Vua Mạ
khác những người đồng hành về hình dáng và đường nét, không phải thuộc dòng
giống người Thượng nhưng gốc Thái Lan. Ông cho biết, khi đoàn của Paul Néis đến
quê hương ông, ông lẩn tránh, ra lệnh cho trưởng buôn và dân làng Đạ M’Ri đón
đoàn, cung cấp phương tiện để đi đến Bình Thuận. Ông đề nghị dẫn đường cho Paul
Néis đến xứ sở ông, hứa sẽ dẫn Paul Néis đến thượng nguồn sông Đồng Nai và hai
phụ lưu chính - La Ngà và Đạ Huoai - tạo điều kiện
dễ dàng
cho việc nghiên cứu dân cư trong vùng. Viên thống đốc sai Albert Septans (An-be
Xép-tăn) - trung uý thủy quân lục chiến,phụ trách địa chính - tháp tùng bác sĩ Paul
Néis.
Bốn ngày
sau, Albert Septans dùng thuyền tam bản đến Biên Hòa cùng với vua Mạ (Patao),
những người Thượng đồng hành và một người Hoa quê quán đảo Hải Nam.
Người
Hoa này nhận nhiệm vụ làm thông dịch và tìm hiểu tài nguyên để buôn bán với
người Mạ.
Trưa
ngày 11-2-1881, đoàn khởi hành. Tuy đoàn không có phong vũ biểu, chỉ có nhiệt
kế, nhưng tại một số nơi, đoàn đã ghi chép được nhiều số đo về khí tượng và
nhân trắc học (mesures anthropométriques) của người dân trong vùng. Hành trình
của đoàn có thể ước đoán như sau :
NGÀY ĐỊA ĐIỂM ĐẾN (theo nguyên văn)
GHI CHÚ
20-2-1881
Voduoc Võ Đắt, nay thuộc tỉnh Bình Thuận
22-2-1881
Krontouc Dãy núi giữa Võ Đắt và Mê Pu
27-2-1881
Damré Đạ M'Ri, nay thuộc huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng
3-3-1881 Conheim Công Hinh, tên cũ của Bảo
Lộc ngày nay
5-3-1881 Cayon K'Dòn, nay thuộc huyện Đức Trọng
11-3-1881
Crang Krăng, nay thuộc huyện Đơn Dương
13-3-1881Diom
Đi-ôm, nay thuộc huyện Đơn Dương
15-3-1881
Melone M'Lọn, nay là thị trấn Thạnh Mỹ,huyện Đơn Dương
16-3-1881
Late Lạch, Đà Lạt ngày nay
22-3-1881Pateing
Păng Tiêng, nay thuộc huyện Lạc Dương
7-4-1881
Late Lạch, Đà Lạt ngày nay
Nghiên
cứu về cao nguyên Lâm Viên và sông Đồng Nai, Paul Néis và Albert
Septans
ghi nhận trong báo cáo ngày 1-8-1881:
“...Khi
rời khỏi núi Tion-lay để đi về hướng Đông Bắc, chúng tôi đi ngang qua một dãy
cao nguyên nhỏ không cao lắm, nhiều cây cối và cắt ngang qua nhiều dòng nước.
Sau khoảng 11 ngày đường, chúng tôi gặp thoạt tiên một dãy núi khác đơn độc:
Delmann và Miul (300m) đầy cây rừng và chạy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc,
tạo thành một dãy đồi mấp mô. Những ngọn đồi này tiếp giáp về hướng Đông Bắc
với một cao nguyên thứ hai trống trải gồm một dãy đồi hoàn hoàn trơ trụi, cao
trung bình từ 30 đến 40m. Về hướng Bắc của cao nguyên, một ngọn núi có hình
dáng đặc biệt, dễ nhìn thấy từ xa, trơ trụi về phía Tây, có rừng về phía Đông.
Đây là núi Lang Bi-an (Lang-bian), đầu nguồn sông Đồng Nai mãi đến bây giờ vẫn
chưa được biết đến....Sông Đồng Nai (Đạ Đờng (Da-dong) theo tiếng Thượng) do
hai dòng suối nhỏ tạo nên: Đạ Lú (Da-lou) và Đạ M’Ri.Suối Đạ Lú bắt nguồn từ
sườn phía Bắc núi Lang-bian, suối Đạ M’Ri từ sườn phía Nam . Hai dòng
suối này chảy trên vùng đất sét, lòng sông nằm giữa hai bờ dốc hơi thẳng đứng,
chiều sâu thay đổi, chiều rộng không đáng kể. Ngay sau khi hai dòng nước này
gặp nhau, dòng sông có chiều rộng trung bình từ 5 đến 6m, chiều sâu 70cm, đáy
cát.
Sông
Đồng Nai men theo những ngọn đồi nối liền Lang Bi-an với Tadoun-tadra, nghiêng
theo hướng Tây Nam
rồi gặp núi Bréang. Tại vùng buôn Lạch (Late), cách đầu nguồn 10km, có một thác
nước cao 4-5m và nhiều thác ghềnh, chiều rộng trung bình 10m, độ sâu 1m, đáy đá.
Giữa các làng Bờ Nơ (Bonor) và Ri Ông (Riom), dòng sông rộng 30-40m, đáy
cát....Từ hợp lưu với sông Đạ Huoai, dòng sông vẫn chảy theo hướng Tây Nam,
chiều rộng thay đổi từ 100 đến 120m; vài đảo nhỏ đầy cây cối, bờ sông cao 4-5m,
đá lô nhô tại vài nơi....Từ núi Lang Bi-an đến hợp lưu, sông Đồng Nai dài
khoảng 300km....Người Thượng sống trong từng làng gần như độc lập. Trong mỗi
làng, cuộc sống là cuộc sống cộng đồng: họ cùng làm rẫy, chất hoa màu thu hoạch
được vào trong kho và mỗi ngày lấy ra một lượng gạo cần thiết để tiêu dùng.
Có thể
tập hợp các buôn lại theo bộ tộc khác nhau về ngôn ngữ, phong tục và tập quán.
Bộ tộc quan trọng nhất chúng tôi gặp là bộ tộc Châu Mạ (Traos Tioma). Ngày xưa,
họ sống trong một vương quốc hùng cường trải dài từ Nam Kỳ đến phía bên kia núi
Lang Bi-an, và từ sông Đồng Nai đến dãy núi chạy dọc theo bờ biển miền Trung.
Patao - hậu duệ nối dõi vua Mạ - chỉ cầm quyền phía Nam xứ này; tuy nhiên, ông cũng có
một số uy quyền đối với các bộ tộc người Thượng khác.
Phía Nam của vùng
người Mạ là vùng người Thượng Biên Hòa ngày xưa thuộc Vương quốc Mạ, vùng thấp
hơn nữa là vùng người Thượng Bà Rịa. Về hướng Đông Bắc, người ta gặp người
Thượng Rắc Lay (Lays), Lạch, Ê Đê (Rdé) mà chúng tôi chưa đến được. Trở về
hướng Tây, chúng tôi đi ngang qua vùng của người Chộp, lân cận với người Stiêng
dường như cũng là một trong những bộ tộc quan trọng nhất.
Người
trong các bộ tộc đều sử dụng một ngôn ngữ duy nhất: tiếng Mạ, nhưng chia ra vô
số tiếng địa phương thường hơi khác nhau. Vốn từ không nhiều, hầu hết là đơn
âm. Hình như không có chữ viết, chúng tôi không tìm thấy một vết tích nào về
văn bia....Chúng tôi đã thu thập được các truyền thuyết, trường ca thường hát
vào buổi tối sau khi say sưa với rượu cần (rnom):
Ngày
xưa, toàn vùng đến tận núi Krontouc đều ngập nước, phần đất không bị lụt lội là
vùng đầm lầy không có người ở,núi non đều hoang vắng. Một hôm, từ phương Nam , một con
rùa chở một người trên lưng bơi chậm chạp đến vùng này. Không tìm thấy đất để
dừng chân, rùa tiến đến núi Krontouc. Con người bước xuống và từ đó sinh ra
người Thượng. Về sau, rùa biến thành đá, hiện vẫn còn, cách Krontouc về hướng
Đông hai ngày đường. Người Thượng đã cất một mái nhà tranh trên hòn đá và bảo
vệ chu đáo. Patao hứa dẫn chúng tôi đến nơi này nhưng chúng tôi không thể đi
được....Đỉnh núi hoa cương Lú Mu gần Đạ M’Ri ngày xưa là một hòn núi rất lớn.
Đỉnh núi mọc đầy chuối quả ngon. Dân cư trong vùng đến hái quả, nhưng một con
quỷ khổng lồ vồ họ và ăn thịt hàng trăm người. Không biết cách nào để chống
trả, người Thượng vội đi kêu cứu người Khơme.
Lịch sử
Cao nguyênLang Biang trước năm 1893 là địa bàn cư trú của các tộc người Thượng. Người Việt đầu tiên có ý định khám phá vùng
rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lí do nên cho tới cuối đời ông
vẫn không thực hiện được ý định của mình. Vào hai năm 1880 và 1881, bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert
Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng người Thượng ở Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, và họ được coi là hai nhà
thám hiểm đầu tiên đã tìm ra cao nguyên Lang Biang. Hành trình của Paul Néis và
Albert Septans mở đường cho nhiều chuyến đi khác như A. Gautier (năm 1882), L.
Nouet (1882), thiếu tá Humann (1884).
Ngày 3 tháng 8 năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý
định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này bất thành. Từ 28 tháng 3 đến 9 tháng 6 năm 1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha
Trang, băng qua vùng cao nguyên Đắk Lắk để đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mê Công (thuộc địa phận Campuchia).
Tháng 1 1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyềnJean
Marie Antoine de Lanessan, khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên sâu vào vùng người
Thượng và kết thúc ở một địa điểm thuận lợi trên bờ biển Trung Kỳ. Yersin còn phải tìm hiểu về tài nguyên trong vùng: lâm sản,
khoáng sản, khả năng chăn nuôi... Từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1893, Yersin đã thực hiện ba chuyến đi quan trọng. Và
15h30 ngày 21 tháng 6, Yersin đã phát hiện ra cao nguyên Lang Biang,
trong nhật ký hành trình, ông ghi vắn tắt "3h30: grand plateau dénudé
mamelonné" (3h30: cao nguyên lớn trơ trụi, gò đồi nhấp nhô).
Với nhu cầu tìm một vùng đất có khí hậu ôn hòa, gần giống với châu Âu để xây dựng khu nghỉ mát, trạm điều dưỡng, toàn quyền Paul Doumer viết một bức thư hỏi ý kiến của Yersin, và Yersin đã trả lời
là cao nguyên Lang Biang. Tháng 3 năm 1899, Yersin cùng toàn quyền Doumer thực hiện một
chuyến đi lên cao nguyên Lang Biang và chuyến đi này có ý nghĩa quyết định về
việc thành lập một trạm điều dưỡng ở đây.
Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ
tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut-Donnai) và hai trạm hành chính được
thiết lập tại Tánh Linh và trên cao nguyên Lang Biang. Đó có thể
được xem là văn kiện chính thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang
Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.
Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập thị tứ, tức thị xã (centre urbain) Đà Lạt, tỉnh lị tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles chuẩn y ngày 30 tháng 5 năm 1916.Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài
Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh
chóng. Vào năm 1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn còn là một khu thị tứ nhỏ với độ 8
căn nhà gỗ tập trung hai bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ
du khách, đến cuối năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm 1923, đồ án thiết kế đầu tiên hoàn thành, Đà Lạt đã
có 1.500 dân.
Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo
dụ ngày 11 tháng 10 cùng năm của vua Khải Định về việc thành lập thành phố (commune- thành
phố loại 2) Đà Lạt cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến
Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương, Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du
lịch Nam Trung Kỳ được thành lập. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại
diện của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà
Lạt. Năm 1936 một Hội đồng thành phố được bầu ra. Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên (Lang
Bian) mới tái lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về chính quốc nên họ tập trung lên nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều
nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp.Ngày 10 tháng
11 năm 1950, Bảo Đại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà
Lạt.Theo Địa phương chí Đà Lạt (Monographie de Dalat), năm 1953, thị xã Đà Lạt
là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số: 25.041
người.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư
từ Bắc vào Nam .
Dưới chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo
dục và khoa học.Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức. Thị xã Đà Lạt có 10 khu phố.Nhiều trường học và
trung tâm nghiên cứu được thành lập: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị Quốc gia Đà
Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), trường Đại học Chiến tranh Chính
trị (1966), trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)... Các công trình phục vụ du lịch
được tiếp tục xây dựng và sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài
Gòn, nhiều chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây dựng... Đà Lạt cũng là một
điểm hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ.
Sau 1975, với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam , nhưng được
bổ sung bởi lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở con số
khoảng 86 ngàn người. Du lịch Đà Lạt hầu như bị lãng quên. Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa,
nhiều biệt thự được đưa vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố
du lịch quan trọng của Việt Nam
với nhiều lễ hội được tổ chức.
Cuối năm 1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết định Đà Lạt sẽ trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương,
nhưng ngay sau đó đã điều chỉnh lại. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Đức, tỉnh
Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng. Thị xã Đà Lạt trở thành thành
phố tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng.
Tổng Quan Đà Lạt
Vị trí
Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm
Đồng, Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và Đông Nam
giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và
Đức Trọng.
Hàng trăm năm trước đây, Đà Lạt là địa bàn cư trú của người Lạch,
hay toàn bộ cao nguyên Lang Biang, diện tích hơn 400 km², bao bọc bởi các đỉnh
núi cao và dãy núi liên tiếp:
Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yộ Đa Myut (1.816
m), Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1.921 m), thuộc quần sơn Lang
Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1.408 m). Phía Đông là chân dãy núi Bi
Doup (2.278 m) dốc xuống cao nguyên Dran. Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1.629
m). Phía Nam và Tây Nam có dãy núi
Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
Các đơn vị hành chính
Thành phố Đà Lạt có 12 phường (được đánh số từ 1 đến 12) và 3 xã:
Tà Nung, Xuân Trường, Xuân Thọ.
Địa hình
Cao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất trong trung
tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri
Phương (1.398,2 m).Bên
trong cao nguyên, địa hình Đà Lạt phân thành hai bậc rõ rệt:
Bậc địa hình thấp là vùng trung tâm có dạng như một lòng chảo bao
gồm các dãy đồi đỉnh tròn, dốc thoải có độ cao tương đối 25-100 m, lượn sóng
nhấp nhô, độ phân cắt yếu, độ cao trung bình khoảng 1.500 m.
Bao quanh khu vực lòng chảo này là các đỉnh núi với độ cao khoảng
1.700 m tạo thành vành đai che chắn gió cho vùng trung tâm. Phía Đông Bắc có
hai núi thấp: hòn Ông (Láp Bê Bắc 1.738 m) và hòn Bộ (Láp Bê Nam 1.709 m). Ở
phía Bắc, ngự trị cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà (Lang Biang) hùng vĩ, cao
2.165 m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ suối Đa Sar (đổ vào Đa Nhim)
đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng). Phía Đông án ngữ bởi dãy núi đỉnh Gió Hú (1.644 m).
Về phía Tây Nam ,
các dãy núi hướng vào Tà Nung giữa dãy Yàng Sơreng mà các đỉnh cao tiêu biểu là
Pin Hatt (1.691 m) và You Lou Rouet (1.632 m). Bên ngoài cao nguyên là các dốc
núi từ hơn 1.700 m đột ngột đổ xuống các cao nguyên bên dưới có độ cao từ 700 m
đến 900 m.
Khí hậu
Do ảnh hưởng của độ cao và rừng thông bao bọc, Đà Lạt mang nhiều
đặc tính của miền ôn đới. Nhiệt độ trung bình 18–21°C, nhiệt độ cao nhất
chưa bao giờ quá 30°C và thấp nhất không dưới 5°C.
Đà Lạt có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa hè thường có mưa vào buổi chiều, đôi khi có mưa đá.Lượng mưa trung bình năm là 1562 mm và độ ẩm 82%.Đà Lạt không
bao giờ có bão, chỉ có gió lớn do ảnh hưởng bão từ biển thổi vào vì sườn đông
không có núi che chắn.
Dân cư
Phát triển dân số
Dân số 188.467 người (2004), mật độ 469 người/km²
Trước Thế chiến thứ hai, dân số Đà Lạt rất ít, ngoài dân cư bản địa chỉ
có một số ít người châu Âu làm công tác. Số người Kinh định cư đầu tiên ở Đà
Lạt là những tù nhân, thay vì phải lưu đày ở Côn Đảo thì bị đưa lên Đà Lạt để khai phá đất hoang, xây dựng nhà
cửa. Trong khoảng thời gian từ năm 1933 đến 1938 nhiều công trình giao thông được hoàn
thành. Bắt đầu từ thời gian này dân số Đà Lạt bắt đầu tăng nhanh từ 1.500 người
(1923) lên đến 9.000 người năm 1928 rồi 11.500 người vào năm 1936. Và đến cuối năm 1942, Đà Lạt đã đạt con số hai vạn dân.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, các viên chức Pháp không có khả năng
trở về quê hương nên đổ xô lên Đà Lạt nghỉ mát. Dân số tăng nhanh trong thời kỳ
này: 13.000 người năm 1940, 20.000 người (1942) và lên đến 25.000 người năm 1944. Trong thời gian kháng chiến 9 năm (1945-1954) dân số Đà Lạt chựng lại ở vào khoảng 25.000
người. Vào cuối năm 1954 dân số tăng lên đến 52.000 người và giữa năm 1955 là
53.390 người do người dân miền Bắc di cư vào Nam . Từ đấy dân số Đà Lạt tăng
73.290 người vào năm 1965, 89.656 người (1970) và đến năm 1982 dân số Đà Lạt đã vượt qua con số 100.000
người. Năm 1999, dân số Đà Lạt là 129.400 người.
Kinh tế
Kinh tế Đà Lạt có thế mạnh về du lịch, trồng hoa và rau. Phần lớn
diện tích trồng hoa chuyên nghiệp của tỉnh Lâm Đồng tập trung tại Đà Lạt. Tổng
cộng diện tích canh tác nông nghiệp của Đà Lạt vào khoảng 9.978 ha. Sản lượng
rau hằng năm vào khoảng 170.000 tấn, trong đó có 35.000 tấn được xuất khẩu sang
các nước Đông Bắc châu Á và ASEAN. Sản lượng hoa Đà Lạt hằng năm vào khoảng 540
triệu cành, trong đó xuất khẩu vào khoảng 33,3 triệu cành hoa.
Kiến trúc
"Tòa nhà" đầu tiên ở Đà Lạt là một đồn binh lợp lá vào
năm 1898, tiếp theo đó là nhà bằng gỗ lợp tôn của viên công sứ Pháp
năm 1900. Hotel du Lac mở cửa vào năm 1907. Năm 1916 người Pháp cho xây dựng thêm Hotel du
Langbian Palace.. Đà Lạt thật sự trở thành thành phố khi người Pháp xây dựng
thành phố theo đồ án thiết kế tổng thể của kiến trúc sư Ernest Hébrard. Năm 1933 kiến trúc sư Pineau trình bày một công
trình nghiên cứu chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt. Đến năm 1940 kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án
mới, quay về với ý tưởng của Hébrard là bố trí các khu vực hành chánh và dân cư
quanh hồ. Thế nhưng dự án này không được duyệt.
Đà Lạt có nhiều công trình xây dựng đặc sắc, phần nhiều mang đặc
trưng của kiến trúc kiểu Pháp. Trong thời gian vừa qua toàn cảnh kiến trúc đô
thị của thành phố Đà Lạt đã bị phá vỡ vì xây dựng thiếu quy hoạch đồng bộ, lấn
chiếm làm nhà ở và cơi nới, xây cất vô lối ngay trong biệt thự. Nếu so với
nhiều thành phố khác trong cả nước, Đà Lạt vẫn là một thành phố trẻ, nhưng đó
lại là một thành phố có đồ án thiết kế theo kiểu cách phương Tây. Đà Lạt trước
kia là một thành phố do người Pháp xây dựng cho người Pháp, và các đồ án thiết
kế đều phải do Phủ toàn quyền quyết định, các kỹ sư, kiến trúc sư, các đoàn lên
Đà Lạt nghiên cứu về việc chỉnh trang, xây dựng đều được tuyển chọn kỹ lưỡng và
nhất thiết phải có trình độ chuyên môn giỏi.